*
điều 136 Bộ luật hình sự quy định về Tội cố ý gây thương tích cho người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

Đến 22h cùng ngày Nguyễn Văn K. và Nguyễn Văn H. bị Tổ công tác Đội Cảnh sát hình sự, Công an thành phố Vinh phát hiện nghi vấn, đưa về trụ sở làm việc. Tại đây cả hai đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Đối với vụ án trên hiện có hai quan điểm:

Quan điểm thứ nhất cho rằng, Nguyễn Văn K., Nguyễn Văn H. phải bị điều tra, truy tố, xét xử theo điểm d khoản 2 Điều 171 BLHS năm 2015. Vì “dùng thủ đoạn nguy hiểm” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 được hiểu là người phạm tội dùng xe mô tô, xe máy để thực hiện hành vi cướp giật tài sản là dùng thủ đoạn nguy hiểm bất kể khi người bị cướp giật đang đi bộ hay đi mô tô, xe máy hoặc người phạm tội đi bộ nhưng cướp của người đang đi mô tô, xe máy.

Bạn đang xem: Điều 136 bộ luật hình sự

Quan điểm thứ hai cho rằng, chỉ áp dụng tình tiết “dùng thủ đoạn nguy hiểm” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 khi người thực hiện hành vi cướp giật đó phải cướp giật của người cũng đang sử dụng phượng tiện là mô tô hoặc xe máy và phải gây ra hậu quả hoặc có nguy cơ thực tế gây ra hậu quả nguy hiểm cho tính mạng sức khoẻ của người bị hại.

Còn người phạm tội cho dù có dùng mô tô hoặc xe máy cướp giật của người đi bộ mà không gây ra hậu quả nguy hiểm cho họ như làm họ ngã hay có thương tích gì, nhất là ở nơi vắng vẻ ít người qua lại thì tính nguy hiểm không cao và không áp dụng tình tiết định khung này. Do đó, hành vi của K. và H. chỉ cấu thành tội “Cướp giật tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 171 BLHS năm 2015.

Theo tác giả, quan điểm thứ hai là không phù hợp và đồng ý với quan điểm thứ nhất. Bởi lẽ, điểm d khoản 2 Điều 171 chỉ quy định “dùng thủ đoạn nguy hiểm”; thủ đoạn nguy hiểm đã được quy định tại Thông tư liên tịch 02/2001 là dùng mô tô, xe máy để thực hiện việc cướp giật tài sản; cướp giật tài sản của người đang đi mô tô, xe máy… Quy định trên gồm hai trường hợp khác nhau:

Trường hợp thứ nhất, dùng mô tô, xe máy để thực hiện việc cướp giật tài sản có nghĩa là người phạm tội sử dụng mô tô, xe máy để thực hiện hành vi cướp giật tài sản của người khác bất kể khi người đó đang sử dụng bất kì phương tiện nào khác hoặc đi bộ thì đều phải áp dụng tình tiết “dùng thủ đoạn nguy hiểm”.

Trường hợp thứ hai, cướp giật của người đang đi mô tô, xe máy tức là nếu người phạm tội đi bộ mà cướp giật của người đang đi mô tô, xe máy cũng được coi là dùng thủ đoạn nguy hiểm.

Cách hiểu quy định tại Thông tư liên tịch số 02/2001 như quan điểm thứ nhất là phù hợp bởi thủ đoạn của người phạm tội dùng mô tô, xe máy để cướp giật tài sản hoặc người phạm tội đi bộ mà cướp giật tài sản của người đang đi mô tô, xe máy thực tế đều sẽ gây nguy hiểm hoặc có nguy cơ cao gây nguy hiểm cho người bị hại.

Hơn nữa, cấu thành cơ bản tại Điều 171 là cấu thành hình thức không phải đợi tới khi hậu quả xảy ra mới cấu thành tội phạm. Ngoài ra, trường hợp dùng thủ đoạn nguy hiểm gây thương tích cho người bị hại từ 11% đến 30% hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác còn bị áp dụng thêm các tình tiết định khung quy định tại điểm e và điểm h khoản 2 Điều 171 BLHS năm 2015.

Do đó, không thể quan niệm cho rằng người bị hại đi bộ bị người phạm tội dùng mô tô, xe máy cướp giật tài sản ở nơi vắng vẻ hoặc chưa gây thương tích hoặc tổn thương cơ thể là tính nguy hiểm không cao để không áp dụng tình tiết định khung này được.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo có thể được hưởng khi phạm tội tại Điều 136 Bộ Luật hình sự

Điều 51 Bộ luật hình sự có quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo đó, khi bị cáo có một trong các tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 51 thì Hội đồng xét xử có thể xem xét cho giảm nhẹ trách nhiệm. Cụ thể:

Các tình tiết các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;

b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;

c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;

e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;

g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;

l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;

m) Phạm tội do lạc hậu;

n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;

o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;

p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;

q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

r) Người phạm tội tự thú;

s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;

u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;

x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.

Ngoài ra, theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự về việc áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thì:

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.

Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.

Vì vậy, bị cáo có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 hoặc trong trường hợp có từ hai tình tiết giảm nhẹ thì bị cáo còn có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

Trên đây là một số nội dung Điều 136 Bộ luật hình sự nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Công ty luật uy tín Luật Trần và Liên Danh để được hỗ trợ nhanh nhất.

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội quy định tại Điều 136


*

Gây thiệt hại trong thường hợp phòng vệ chính đáng hoặc khi bắt giữ người phạm tội là những trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự, tuy nhiên việc gây thiệt hại chỉ ở mức cần thiết mới được loại trừ trách nhiệm. Nhiều trường hợp người thực hiện hành vi phòng vệ chính đáng hoặc bắt giữ người phạm tội lại gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe người khác quá mức cần thiết. Động cơ phạm tội của người phạm tội xuất phát từ việc bảo vệ lợi ích của bạn thân, Nhà nước nên không thể đánh đồng tội phạm này với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Do đó, pháp luật hình sự đã đặt ra quy định riêng xử lý nội dung này.

1. Căn cứ pháp lý

Điều 136. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:

a) Đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.

3. Phạm tội dẫn đến chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm.”

2. Dấu hiệu pháp lý tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội

2.1. Khách thể của tội phạm

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội gồm 02 tội là tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá mức cần thiết khi bắt người phạm tội.

Phòng vệ chính đáng và gây thiệt hại trong khi trong khi bắt giữ người phạm tội là 02 trong 07 trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 22 và Điều 24 Bộ luật hình sự. Có nghĩa là con người có quyền phòng vệ chính đáng và bắt giữ người phạm tội. Tuy nhiên quyền này được giới hạn ở “mức cần thiết”.

Điều 22 Bộ luật Hình sự quy định “vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng” là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại. Theo đó, cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là trường hợp người phòng vệ chính đáng thực hiện hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết gây ra hậu quả tổn hại sức khỏe người khác từ 31% trở lên. Tội phạm này xâm hại trực tiếp đến sức khỏe con người.

Điều 24 Bộ luật Hình sự quy định “gây thiệt hại quá mức cần thiết trong khi bắt giữ người phạm tội” là trường hợp gây thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết, thì người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm hình sự. Từ đó, ta hiểu cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội là trường hợp người có quyền, nghĩa vụ bắt người phạm tội đã sử dụng vũ lực quá mức cần thiết gây hậu quả tổn hại sức khỏe người khác từ 31% trở lên. Tội phạm này cùng xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe nạn nhân.

Cả hai tội phạm được nêu trong Điều 136 Bộ luật Hình sự đều xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe con người. Nói cách khác, cả hai tội phạm đều có khách thể là quyền bất khả xâm phạm thân thể, sức khỏe và quyền phòng vệ chính đáng, quyền bắt giữ người phạm tội của con người.

2.2. Mặt khách quan của tội phạm

Cả 02 tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá mức cần thiết khi bắt người phạm tội đều có chung hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Tuy nhiên ngay trước khi thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, người phạm tội đã thực hiện hành vi phòng vệ chính đáng và sử dụng vũ lực để bắt giữ người phạm tội.

Căn cứ vào Điều 22 Bộ luật hình sự quy định về chế định phòng vệ chính đáng: “Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.”

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải thỏa mãn 04 điều kiện sau đây:

- Hành vi của nạn nhân là hành vi phạm tội hoặc là hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm hại đến quyền hoặc lợi ích chính đáng của cá nhân, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức;

- Hành vi xâm hại của nạn nhân phải đang diễn ra, đã bắt đầu nhưng chưa kết thúc.

- Hậu quả xảy ra là nạn nhân bị thương tật từ 31% trở lên hoặc dẫn đến chết người.

- Hành vi phòng vệ của người phạm tội không tương xứng với hành vi xâm hại của nạn nhân, tức là quá mức cần thiết gây ra tổn hại từ 31% trở lên cho sức khỏe hoặc gây chết nạn nhân. Sự tương xứng ở đây dựa vào tính chất, mức độ hành vi của người xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người phạm tội, Nhà nước, tổ chức. Trường hợp nếu hành vi mà nạn nhân gây ra cũng gây tổn hại đến sức khỏe của người phạm tội cao hơn hành vi mà người phạm tội gây ra và cao hơn mức 31% thì hành vi phạm tội của người phạm tội được coi là tương xứng với hành vi nguy hiểm mà nạn nhân thực hiện. Do đó trường hợp này vẫn được coi là phòng vệ chính đáng.

Điều 24 Bộ luật hình sự quy định về gây thiệt hại khi bắt người: “Hành vi của người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm.”

Người thực hiện bắt giữ nếu là chiến sĩ công an nhân dân thì theo Khoản 15 Điều 16 Luật Công an nhân dân số37/2018/QH14 ngày 20 tháng 11 năm 2018 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của chiến sĩ công an nhân dân: “Sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ, vũ lực, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ, phương tiện khác để tấn công, truy bắt tội phạm, ngăn chặn người đang thực hiện hành vi phạm tội hoặc hành vi vi phạm pháp luật khác và để phòng vệ chính đáng theo quy định của pháp luật.”

Trường hợp người dân thực hiện việc bắt người quả tang hay bắt người đang bị truy nã theo Điều 111 và Điều 112 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015,người bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã có quyền tước vũ khí, hung khí của người bị bắt bằng cách sử dụng vũ lực.

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá mức cần thiết khi bắt người phạm tội cũng phải thỏa mãn 04 điều kiện giống với tội phạm thực hiện do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng bao gồm:

- Hành vi của nạn nhân là hành vi phạm tội hoặc là hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm, đáng lẽ phải bị bắt giữ nhưng nạn nhân đã chống đối, buộc người bắt giữ phải sử dụng vũ lực để bắt giữ.

- Hành vi chống đối của nạn nhân phải đang diễn ra, đã bắt đầu nhưng chưa kết thúc.

- Hậu quả xảy ra là nạn nhân bị thương tật từ 31% trở lên hoặc dẫn đến chết người.

- Hành vi dùng vũ lực để bắt giữ người phạm tội không tương xứng với hành vi chống đối của họ, tức là quá mức cần thiết gây ra tổn hại từ 31% trở lên cho sức khỏe hoặc gây chết nạn nhân. Sự tương xứng ở đây dựa vào tính chất, mức độ hành vi chống đối của người phạm tội.

Hậu quả gây tổn hại cho sức khỏe nạn nhân từ 31% trở lên hoặc gây hậu quả chết người là dấu hiệu bắt buộc. Giữa hậu quả đó và hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc hành vi vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội có mối quan hệ nhân quả. Sự thương tổn của nạn nhân phải xuất phát từ nguyên nhân là hành vi phòng vệ chính đáng hoặc hành vi bắt giữ người phạm tội. Ví dụ, anh A vì mâu thuẫn nên đã chặn đường đánh anh B, B vì phòng vệ chính đáng nên đã đấm nhiều phát vào bụng A, sau đó anh A ngất đi, anh B đưa A vào viện cấp cứu thì A chết do lên cơn hen suyễn. Trước đó, B không hề biết A bị hen suyễn. Như vậy, trong trường hợp này A không được coi là cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.

Căn cứ để đánh giá mức độ thương tích là kết quả giám định pháp y theo quy định tại Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28 tháng 8 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần. Trong đó, nếu tỷ lệ tổn thương cơ thể nạn nhân từ 31% trở lên thì người sử dụng vũ lực trái phép trong khi thi hành công vụ mới bị coi là phạm tội.

Tội phạm hoàn thành khi có hậu quả tổn hại cho sức khỏe nạn nhân từ 31% trở lên hoặc gây hậu quả chết nạn nhân do hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc hành vi vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội.

2.3. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội là người nào từ đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự.

Chủ thể của tội phạm này có thể là công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch nhưng phải trong tình thế phòng vệ chính đáng hoặc bắt giữ người phạm tội. Trường hợp một tổ các chiến sĩ công an, bộ đội làm nhiệm vụ bắt giữ người và có sử dụng vũ lực vượt quá mức cần thiết thì không được coi là đồng phạm hay phạm tội có tổ chức.

Khoản 1 Điều 12 Bộ luật hình sự quy định người từ đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội quy định trong Bộ luật này. Khoản 2 Điều 12 quy định một số tội người từ đủ 14 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự nhưng không có tội phạm theo Điều 126. Do đó, độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội theo điều 126 Bộ luật hình sự là người từ đủ 12 tuổi.

Người phạm tội phải có đủ năng lực trách nhiệm hình sự gồm năng lực nhận thức và năng lực làm chủ hành vi.

2.4. Mặt chủ quan của tội phạm

Chủ thể của tội phạm thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do lỗi vô ý, có thể là lỗi vô ý do quá tự tin hoặc vô ý do cẩu thả hoặc lỗi cố ý gián tiếp. Người phạm tội có động cơ phòng vệ chính đáng hoặc bắt giữ người phạm tội, đây hoàn toàn là động cơ tốt, bảo vệ lợi ích của bản thân, của người khác hoặc của Nhà nước, cơ quan, tổ chức. Người phạm tội hoàn toàn nhận thức được hậu quả gây tổn hại đến sức khỏe nạn nhân có thể xảy ra những vẫn tự tin rằng mình ra tay không nặng, không quá ảnh hưởng đến nạn nhân hoặc do lỗi cẩu thả, chủ quan cho rằng hậu quả kể trên sẽ không xảy ra.

3. Hình phạt đối với người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội

Điều 136 Bộ luật Hình sự quy định 03 khung hình phạt đối với người phạm tội như sau:

- Khung hình phạt phạt phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm đối với trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội. Theo Điều 9 Bộ luật hình sự, người phạm tội bị xử phạt theo khung này thuộc loại tội ít nguy hiểm.

- Khung hình phạt phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm đối với trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên. Theo Điều 9 Bộ luật hình sự, người phạm tội bị xử phạt theo khung này thuộc loại tội ít nguy hiểm.

- Khung hình phạt phạt tù từ 01 năm đến 03 năm trong trường hợp phạm tội dẫn đến chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên. Nạn nhân bị chết là do chính vết thương mà người phạm tội đã gây ra, nhưng người phạm tội hoàn toàn không mong muốn và cũng không bỏ mặc, tức là không có căn cứ để xác định thuộc trường hợp giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội quy định tại Điều 126 Bộ luật Hình sự.

4. Vụ án thực tế xét xử về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội

Kết quả xem xét dấu vết thân thể và thương tích của các đối tượng tham gia:

Đối với Tòng Văn S: Tại vị trí mặt cạnh ngoài bên phải đốt thứ nhất ngón thứ hai bàn tay trái có 01 vết sẹo, kích thước 02cm x 0,3cm. Tại bản kết luận giám định pháp y số 146 đối với Tòng Văn Sinh: “Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là: 01% (Một phần trăm).Cơ chế hình thành thương tích: Vết thương phần mềm ngón II tay trái của Tòng Văn Sinh là do tác động trực tiếp của vật có cạnh sắc gây nên”

Đối với Lò Văn A: Không phát hiện dấu vết tổn thương.

Xem thêm: Những Câu Nói Hay Về Nhớ Người Yêu Ở Xa Ngắn Hay Cho Mọi Tâm Trạng

Tuyên bố bị cáo Lò Văn A phạm tội “Cố ý gây thương tích cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng”. Xử phạt bị cáo Lò Văn A 09 (chín) tháng cải tạo không giam giữ. Thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ của bị cáo tính từ ngày Cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo cho chính quyền địa phương UBND xã CB, huyện MS, tỉnh Sơn La giám sát, giáo dục bị cáo. Gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND xã giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian chấp hành hình phạt. Miễn hình phạt bổ sung và biện pháp khấu trừ thu nhập cho bị cáo.

Luật Hoàng Anh