NDO - Dân tộc Chứt, thuộc nhóm Việt-Mường, là một trong những dân tộc ít người sống tại miền trung Việt Nam. Hiện nay đời sống kinh tế-xã hội của người Chứt đang từng bước cải thiện, qua đó, thu hẹp khoảng cách phát triển với các dân tộc khác.

1. Nguồn gốc lịch sử:

Quê hương xưa của người Chứt thuộc địa bàn cư trú của người Việt ở 2 huyện Bố Trạch và Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Vì nạn giặc giã, thuế khóa nặng nề nên họ phải chạy lên nương náu ở vùng núi, một số dần dần chuyển sâu vào vùng phía tây thuộc 2 huyện Minh Hóa và Bố Trạch tỉnh Quảng Bình. Theo gia phả của một số dòng họ người Việt trong vùng thì các nhóm Rục, Sách cư trú tại vùng núi này ít nhất đã được trên 500 năm nay.

Bạn đang xem: Cuộc sống trong hang đá của tộc người rục tại quảng bình

Tên gọi khác: Người Mã Liêng, A Rem, Tu Vang, Pa Leng, Xơ Lang, Tơ Hung, Chà Củi, Tắc Củi, U Mo, Xá Lá Vàng, Rục, Sách, Mày, Mã Liềng...

2. Phân bố địa lý:

Dân tộc Chứt bao gồm các nhóm: Sách, Rục, Arem, Mày, Mã Liềng; cư trú chủ yếu ở các huyện miền núi như Minh Hóa, Tuyên Hóa, Bố Trạch thuộc tỉnh Quảng Bình và 1 nhóm Mã Liềng cư trú ở 2 xã Hương Liên, Hương Vĩnh thuộc huyện Hương Khê của tỉnh Hà Tĩnh. Đây là địa bàn núi rừng hiểm trở, đồi dốc và thường xuyên bị chia cắt bởi hệ thống sông suối dày đặc.

3. Dân số, ngôn ngữ:

- Dân số: Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số năm 2019, người Chứt là tộc người có dân số ít thứ 12 ở nước ta với tổng dân số là 7.513 người (3.793 nam, 3.720 nữ).

- Ngôn ngữ: Tiếng Rục, thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường trong ngữ hệ Nam Á.

*
Gia đình ở người Chứt chủ yếu là gia đình nhỏ, gồm 2 thế hệ bố mẹ và con cái. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

4. Đặc điểm chính:

- Thiết chế xã hội truyền thống: Người Chứt gọi làngcavel. Mỗi làng thường chỉ có dăm bảy hoặc mười gia đình của một dòng họ cư trú. Ðôi khi các gia đình trong một họ lại cư trú ở nhiều làng khác nhau. Ðứng đầu mỗi làng là pừ cavel, nghĩa là bố của làng do dân bầu ra. Giúp việc cho pừ cavel là các già làng, gồm những người từ 50 tuổi trở lên. Sinh hoạt tập thể, quan trọng nhất trong làng là vào những dịp lễ tết nông nghiệp.

Gia đình ở người Chứt chủ yếu là gia đình nhỏ, gồm 2 thế hệ bố mẹ và con cái. Gia đình có 3 thế hệ rất ít. Con trai sau khi lấy vợ thường hay tách ra ở riêng. Người Chứt theo chế độ phụ hệ. Người đàn ông là chủ gia đình, có quyền quyết định mọi việc lớn trong gia đình.

*
Một làng dân tộc Chứt ở Quảng Bình. (Ảnh: dantocmiennui.vn)

- Nhà ở: Trong các nhóm của dân tộc Chứt, người Mày, Mã Liềng, Arem ở nhà sàn; người Sách, Rục ở nhà đất. Trước đây khi còn cư trú ở trong rừng, người Sách Cọi, Mày, Rục đều có tập quán ở trong hang đá, mái đá, nơi có các rục nước.


Về bố trí mặt bằng, nhà của người Mày, Mã Liềng được chia làm 3 gian: gian ngoài, gian giữa, gian buồng. Nhà của 3 nhóm Sách, Rục, Arem chỉ có 2 gian (người Sách và Rục gọi là căn; người Arem gọi là dậy).

- Tôn giáo, tín ngưỡng: Thờ tổ tiên, thờ thần linh và thế giới quan. Quan niệm vạn vật và con người có linh hồn nên cả 5 nhóm người Chứt đều tin vào sự hiện diện của các ma như ma rừng, ma núi, ma khe, ma cây, ma bếp; người sống có vía, khi chết biến thành ma.

- Trang phục: Người Chứt không biết trồng bông dệt vải. Trước đây, trang phục truyền thống của bà con dân tộc Chứt chủ yếu là áo, khố làm bằng vỏ cây rừng như cây sui, cây sàng, cây si... Ngày nay, người Chứt đều có xu hướng mặc theo người Việt hoặc người Khùa, Lào...

- Hôn nhân: Trai gái đến tuổi trưởng thành được tự do tìm hiểu yêu đương. Người Chứt theo chế độ 1 vợ, 1 chồng. Trước khi cưới, nhà trai phải chọn ông mối, đi dạm hỏi vài lần. Lễ vật quan trọng nhất thiết phải có thịt khỉ sấy khô. Người Chứt có tục ở rể 2-3 năm sau lễ ăn hỏi.

*
Bà con thi nấu Cơm Pồi - món ăn truyền thống của người Chứt. (Ảnh: dantocmiennui.vn)

- Ẩm thực: Lương thực chủ yếu của người Chứt là nhúc, ngô, sắn, gạo. Họ thường ăn 2 bữa chính, buổi sáng (6-7 giờ) và chiều (16-17 giờ). Bữa trưa thường ăn khoai, sắn luộc. Những khi mất mùa, giáp hạt, người dân vẫn phải ăn bột nhúc hoặc một số củ, quả rừng thay cơm.

Uống nước chè là tập quán lâu đời của người Chứt. Ngoài ra, họ cũng thích uống rượu, hút thuốc và ăn trầu.

- Giáo dục: Hiện nay, hầu hết trẻ em dân tộc Chứt trong độ tuổi đi học được đến trường. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2019, tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết chữ phổ thông là 64,9%, tỷ lệ người đi học chung cấp tiểu học 101,9%, tỷ lệ người đi học chung cấp trung học cơ sở là 84,7%, tỷ lệ người đi học chung cấp trung học phổ thông là 42,4%, tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường là 16,4%.

*
Người Chứt sống bằng nông nghiệp nương rẫy du canh và săn bắn hái lượm. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

5. Điều kiện kinh tế:

Người Chứt sống bằng nông nghiệp nương rẫy du canh và săn bắn hái lượm. Các giống cây trồng chính là ngô, sắn, đỗ, lúa. Công cụ sản xuất gồm: rìu, rựa, gậy chọc lỗ, nơi làm ruộng có thêm cày, bừa. Từ khi định cư, người Chứt đã nuôi trâu, bò phục vụ cày bừa, làm sức kéo. Ðan lát chủ yếu do nhu cầu tiêu dùng trong gia đình. Ðôi nơi họ biết thêm nghề rèn dao, rìu. Hiện nay, kinh tế sản xuất ngày càng đóng vai trò chủ đạo, tuy cuộc sống còn nhiều khó khăn nhưng người Chứt đang dần thoát đói nghèo và mở ra tương lai về một cuộc sống no đủ nhờ sự xuất hiện của canh tác lúa nước; đồng thời hình thành các vùng liên bản mang những hình thái kinh tế đặc trưng.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2019: tỷ lệ thất nghiệp (6,11%); tỷ trọng lao động làm trong lĩnh vực phi nông nghiệp (8,4%); tỷ lệ hộ nghèo (60,6%); tỷ lệ hộ cận nghèo (28,7%); tỷ lệ hộ sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh (39,2%); tỷ lệ hộ sử dụng điện lưới để thắp sáng (85,0%).

Tộc người Rục Quảng Bình được tìm thấy tại các hang động Phong Nha, đã trở thành “em út” trong số 54 dân tộc anh em của Việt Nam. Dân tộc này có nếp sống rất khác biệt, tuy có phần lạc hậu nhưng vẫn có những điều rất thú vị chờ bạn khám phá trong hành trình du lịch Quảng Bình.

Xem nhanh

1. Quá trình tìm ra Tộc người Rục Quảng Bình2. Nguồn gốc và lối sống của Tộc người Rục Quảng Bình trước khi hòa nhập cộng đồng2.1 Nguồn gốc của Tộc người Rục Quảng Bình2.2 Cách mưu sinh của người Rục3. Đời sống của Tộc người Rục Quảng Bình hiện tại4. Những lưu ý khi khám phá cuộc sống của Tộc người Rục Quảng Bình
1. Quá trình tìm ra Tộc người Rục Quảng Bình2. Nguồn gốc và lối sống của Tộc người Rục Quảng Bình trước khi hòa nhập cộng đồng2.1 Nguồn gốc của Tộc người Rục Quảng Bình2.2 Cách mưu sinh của người Rục3. Đời sống của Tộc người Rục Quảng Bình hiện tại4. Những lưu ý khi khám phá cuộc sống của Tộc người Rục Quảng Bình

1Quá trình tìm ra Tộc người Rục Quảng Bình

Vào mùa đông năm 1959, khi tuần tra khu vực hang động, bộ đội Biên phòng Cà Xèng tại Thượng Hóa đã bất ngờ phát hiện một nhóm “người rừng” sinh sống trong vách đá. Họ rất nhút nhát, trên người không mặc quần áo, đang leo trèo và chuyền từ cành sang cành nhanh như loài khỉ. Sau đó là một khoảng thời gian dài đội ngũ bộ đội và cán bộ đã kiên trì tiếp cận tộc người này, vận động họ rời hang đá để về định cư sinh sống tại 3 bản của xã Thượng Hóa là bản Ón, bản Yên Hợp và bản Mò O - Ồ Ồ. Tộc người này được đặt tên là người Rục, trở thành em út trong cộng đồng dân tộc thiểu số Việt Nam.


*

Những hình ảnh đầu tiên khi bộ đội tìm thấy Tộc người Rục Quảng Bình khi họ đang sinh sống trong những hang đá ở Phong Nha


Đến năm 2013, Tộc người Rục Quảng Bình đã được đưa vào danh sách Top 10 bộ lạc bí ẩn nhất thế giới. Họ tuy chỉ sinh sống trong hang sâu, có tập quán và nếp sống lạc hậu, chỉ quen thuộc với săn bắt hái lượm nhưng tộc người này cũng có đời sống tinh thần rất phong phú, là một nét đặc trưng giữa xã hội hiện đại ngày nay.

2Nguồn gốc và lối sống của Tộc người Rục Quảng Bình trước khi hòa nhập cộng đồng

2.1 Nguồn gốc của Tộc người Rục Quảng Bình

Đến năm 1959 các cán bộ nhà nước mới phát hiện ra Tộc người Rục Quảng Bình. Tuy nhiên trên thực tế, người dân tại khu vực Phong Nha đã quen thuộc với hình ảnh tộc người chuyên sinh sống ẩn mình trong các hang đá nơi rừng sâu này. Thậm chí người dân địa phương còn thêu dệt khá nhiều câu chuyện kì bí về nguồn gốc của tộc người này.

Còn theo nghiên cứu của các nhà khoa học thì người Rục có địa vực sinh sống và phát triển lâu đời tại vùng Trườn, sát với biên giới Việt Lào. Họ là hậu duệ của người Việt Mường, trở thành một trong số hiếm hoi tộc người đến thế kỷ 19 vẫn sống bằng săn bắt và hái lượm.

Theo lời kể của những người già làng người Rục thì ngày xưa họ chỉ sống ở hang Lèn, những mái đá hoặc làm trại ở dưới chân núi. Họ thường sống ở các vùng có nước rục (là nước chảy ra từ núi đá vôi hoặc mạch ngầm trong lòng đất) thế nên mới được đặt tên là Tộc người Rục Quảng Bình.


*

Những hang đá từng là nơi sinh sống của Tộc người Rục Quảng Bình


2.2 Cách mưu sinh của người Rục

Trước khi được phát hiện vào năm 1959 và rời hang đá, người Rục có đời sống gần như hoàn toàn tách biệt với nhịp sống bên ngoài, cuộc sống dựa vào khai thác tự nhiên giống như sinh hoạt của người tiền sử. Lúc này, người Rục không biết đến xã hội bên ngoài cũng như sự tồn tại của những dân tộc khác, họ sống rất bản năng và chỉ dùng những tấm vỏ cây để che thân một cách đơn sơ.

Người Rục dẻo dai và có phần khá “hoang dại”, họ quen với việc leo trèo cây để săn bắt, hái lượm. Món ăn của họ chủ yếu là những loại thú hoang nhỏ, ngoài ra còn có bột nhúc, bột đoác được giã thô sơ bằng đá. Ngọn cây nhúc được người Rúc hái về rồi phơi khô, sau đó đem giã nhuyễn rồi hòa với nước sôi để tạo thành một thứ bột dẻo ăn được. Người Rục còn biết cách chế thành rượu từ cây nhúc, được họ dùng như một cách giữ ấm cơ thể vào mùa đông.

Bên cạnh đó, ngôn ngữ của họ cũng rất hạn chế, gần như chỉ biểu thị bằng hành động. Vì thế quá trình cán bộ tiếp xúc với Tộc người Rục Quảng Bình đã vấp phải rất nhiều khó khăn. Đến hiện tại, hầu hết người Rục vẫn không quá lưu loát tiếng Kinh, vì thế nếu bạn muốn giao tiếp với họ thì phải nói thật chậm và nghe thật kỹ những lời họ nói mới hiểu nhé.

3 Đời sống của Tộc người Rục Quảng Bình hiện tại

Đã hơn 50 năm từ thời điểm người Rục rời hang đá và hòa nhập vào cuộc sống cộng đồng hiện đại. Thế nhưng người Rục vẫn còn rất "nặng lòng" với cuộc sống hoang sơ, luôn luôn hướng về tự nhiên, rừng sâu và hang đá v.v. Những thế hệ trẻ lớn lên thì đã có phần hòa nhập hơn, còn những người bô lão trong làng vẫn cứ đến mùa rẫy là lại dắt díu nhau lên rừng vài ba tháng để được sống lại cuộc sống hòa mình vào thiên nhiên như trước đây.


*

Tộc người Rục Quảng Bình vẫn còn rất nặng lòng với đời sống bên trong hang đá, mỗi năm vài tháng lại dọn lên đây ở để bớt nhớ mong cuộc sống quá khứ


4Những lưu ý khi khám phá cuộc sống của Tộc người Rục Quảng Bình

Trong hành trình Du lịch Quảng Bình, nếu bạn hứng thú và muốn tìm hiểu về cuộc sống của Tộc người Rục Quảng Bình thì cần chuẩn bị tâm lý là họ khá rụt rè, ngại giao tiếp. Vì thế việc nói chuyện và tìm hiểu cuộc sống của tộc người này sẽ tương đối khó khăn nhé. Ngoài ra, bạn có thể chuẩn bị một vài loại quà bánh để cho các em bé dân tộc Rục, các bé rất dễ thương và lưu loát tiếng phổ thông hơn so với người lớn.

Xem thêm: Chương Trình Phật Học Tại Việt Nam Và Trên Thế Giới, Link Xem U20 Việt Nam Vs U20 Hồng Kông

Bên cạnh đó, dù đã rời hang đá hơn nửa thế kỷ nhưng về cơ bản đời sống của người Rục vẫn còn lạc hậu, thiếu thốn khá nhiều những cơ sở vật chất cơ bản. Do đó, theo Kinh nghiệm du lịch Quảng Bình tự túc từ A đến Z của tmec.edu.vn thì bạn chỉ nên ghé đến giao lưu và tìm hiểu về cuộc sống của người dân tộc này chứ không nên ở lại qua đêm nhé. 


*

Những đứa trẻ người Rục thành thạo tiếng phổ thông hơn người lớn nên bạn có thể trò chuyện với các em để hiểu hơn của cuộc sống của tộc người này


Trên đây là một vài thông tin về Tộc người Rục Quảng Bình mà cẩm nang du lịch tmec.edu.vn muốn giới thiệu đến bạn. Nếu có dịp đến đây, bạn đừng bỏ lỡ cơ hội tìm hiểu về văn hóa của họ để càng hiểu thêm về sự đa dạng của văn hóa Việt Nam được tạo nên từ 54 dân tộc anh em nhé.